Mục Lục
THÔNG TIN CHUNG VỀ BỆNH
- Đây là bệnh nhiễm trùng huyết cấp tính, viêm thanh dịch, bại huyết. Bệnh do vi khuẩn Riemerella anatipestifer gây ra. Đây là một vi khuẩn gram âm.
- Bệnh thấy trên mọi lứa tuổi của vịt, thường từ 1 – 8 tuần tuổi (trung bình 4 – 6 tuần tuổi
- Vịt con dễ nhiễm hơn vịt lớn. Vịt càng lớn tỉ lệ chết vì bệnh càng cao. Đôi khi cũng gặp ở gia cầm khác (ngỗng, gà tây)
- Nhạy cảm với các loại thuốc sát trùng thông thường như formol, phenol, xút và các muối ammonium 1%. Vi khuẩn ít đề kháng ở môi trường ngoài. Trong điều kiện bình thường vi khuẩn tồn tại 2 tuần trong nước và tồn tại 1 tháng trong đệm lót chuồng.
- Về phương thức truyền lây: truyền trực tiếp hoặc gian tiếp (qua sơ đồ).
TRIỆU CHỨNG
Thể cấp tính
- Thời gian ủ bệnh từ 2 – 5 ngày, vịt suy yếu, vịt sốt cao 42 – 42,5 độ C, mệt lả nằm bệt.
- Hô hấp: Khẹc nhẹ và hắt hơi, mắt và niêm mạc mũi tiết dịch.
- Tiêu hóa: Kém ăn, tiêu chảy phân trắng hoặc lẫn xanh dẫn đến gầy, yếu nên luôn tụt lại sau đàn.
- Rối loạn thần kinh: đầu run giật ngoẹo về sau, dễ bị kích thích
- Rối loạn vận động: Bơi thành vòng tròn trên mặt nước, khi đi đầu lắc lư, chân khập khiễng, lết chân, xã cánh.
Thể quá cấp
- Vịt bệnh có thể chết đột ngột trước khi xuất hiện các triệu chứng, thông thường chết từ 5 – 10%, nhưng có trường hợp chết có thể gia tang lên 50 hay 100% nếu có kết hợp với các bệnh E.coli, Dịch tả vịt.
Bệnh tích
Thể quá cấp
- Viêm bao tim tơ huyết, có dịch ở xoang bao tim. ở giai đoạn sau bao tim khô và viêm tơ huyết nặng. Các tổn thương thường kết hợp với những điểm xuất huyết lấm tấm.
- Màng gan bị viêm có lớp dịch đục.
- Túi khí thường hơi đục hoặc dày lên ở một số điểm.
Thể cấp tính
- Bề mặt gan phủ một lớp fibrin dày đục
- Túi khí viêm nặng và dai, chắc
- Lách sưng to và hơi dài ra, hơi mất màu hoặc hoại tử vân đá hoa.
- Thận tích urate.
- Ở xoang mắt đôi khi cũng có chất bã đậu trắng.
- Viêm màng não xuất huyết
- Bệnh nặng tất cả các cơ quan nội tạng được bảo phủ bởi 1 lớp tơ huyết dày.
Chẩn đoán
- Dựa vào các đặc điểm dịch tễ và lâm sàng: Vịt mắc bệnh ở giai đoạn 1 – 8 tuần tuổi, mắc bệnh với tỷ lệ chết cao. Các triệu chứng lâm sàng cần quan tâm: tiêu chảy phân xanh trắng, rối loạn thần kinh, vận động và hô hấp. Mổ khám với các bệnh tích viêm tơ huyết bao phủ các cơ quan nội tạng, lách sưng to và hoại tử vân đá hoa.
- Dể chính xác cần tiến hành chẩn đoán trong phòng thí nghiệm.
- Chú ý chẩn đoán phân biệt với các bệnh: Bệnh viêm gan do virus, bệnh cúm, bệnh tụ huyết trùng, các trường hợp bội nhiễm bởi E.coli.
Phòng và trị bệnh
Phòng bệnh
- Chuyển đàn vịt lên cạn và cố định chỗ nhốt
- Không để đàn vịt khác đến gần đàn vịt có bệnh
- Tách riêng vịt có triệu chứng bệnh
- Tạo điều kiện cho đàn vịt ăn uống trên cạn
- Tiêu độc chỗ nhốt vịt hàng ngày, Tiêu hủy vịt chết
- Điều trị dự phòng với Amox – colistrộn vào thức ăn khi có thay đổi thời tiết, stress.
Điều trị
- Nguyên tắc điều trị: Bệnh bại huyết gây sốt cao và gây ra các tổn thương nặng nề đối với gan, thận và lách. Vì vậy trong điều trị chú ý đến việc hạ sốt, giải độc và tăng cường công năng hoạt động của gan thận.
- Sử dụng các thuốc có tác dụng hạ sốt, giải độc gan thận trước khi dùng kháng sinh điều trị.
- Sử dụng các loại kháng sinh nhạy cảm: Ampicillin, Amoxycillin Doxycillin, Florphenicol pha nước uống hoặc trộn thức ăn. Hoặc sử dụng Ceftiofur tiêm dưới da. Có thể sử dụng Trimethoprim –Sulfa (chú ý giải độc gan thận)
- Ngoài ra cần chú ý bổ sung các thuốc bổ và men tiêu hoá sống.
- Chú ý: Trong quá trình điều trị cần cách ly vịt bệnh với các nguồn nước, ao nuôi và môi trường ô nhiễm. Trong những ngày điều trị cần phun sát trùng chuồng trại và khử trùng nguồn nước ao nuôi sẽ giúp tang hiệu quả điều trị và giảm nguy cơ tái phát.
Cảm ơn các bạn đã theo dõi và tham khảo bài viết về bệnh bại huyết trên vịt của Vet24h!